Chất lượng hạt giống được xác định bởi một số đặc điểm di truyền và sinh lý. Đặc điểm di truyền liên quan đến sự khác biệt giữa hai hoặc nhiều dòng di truyền, trong khi sự khác biệt giữa các lô hạt giống của một dòng di truyền bao gồm đặc điểm sinh lý. Các yếu tố di truyền có thể ảnh hưởng đến chất lượng bao gồm:

Các đặc điểm kiểu hình hoặc môi trường bao gồm:
- Khả năng bị tổn thương trong qua trình gieo trồng
- Điều kiện sinh trưởng trong quá trình phát triển hạt giống
- Dinh dưỡng của cây mẹ
- Thiệt hại bên ngoài trong quá trình sản xuất hoặc bảo quản do máy móc hoặc côn trùng gây ra
- Độ ẩm và nhiệt độ trong quá trình bảo quản
- Tuổi hoặc sự chín của hạt giống
Sự suy giảm chất lượng hạt giống có thể bắt đầu ở bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn phát triển của cây kể từ khi thụ tinh trở đi. Chất lượng hạt giống phụ thuộc vào các điều kiện vật lý mà cây mẹ tiếp xúc trong các giai đoạn sinh trưởng cũng như trong quá trình thu hoạch, chế biến, bảo quản và trồng.
Nhiệt độ, chất dinh dưỡng và các yếu tố môi trường khác cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của hạt giống và ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống.
Hạt giống chất lượng cao là kết quả của thực hành sản xuất tốt, bao gồm:
- Duy trì đúng cách độ thuần di truyền;
- Điều kiện phát triển tốt;
- Thời điểm và phương pháp thu hoạch thích hợp;
- Quá trình xử lý phù hợp trong quá trình đập, làm sạch và sấy khô; và
- Hệ thống bảo quản và phân phối hạt giống thích hợp.
Hạt giống chất lượng cao phải đúng chủng loại hoặc giống, ít giống lẫn nhất và có tỷ lệ nảy mầm cao trên đồng ruộng. Các tiêu chí chính để mô tả chất lượng hạt giống có thể được xem xét là:
- Các đặc tính của giống
- Đặc điểm lô hạt giống
- Sức sống của hạt giống
1. Đặc điểm độ thuần của giống

Đặc điểm lô hạt
Mô tả lô hạt giống bao gồm mức độ tạp chất, kích thước hạt và hạt bị hư hỏng, biến dạng hoặc bị bệnh.
Tạp chất: Mức độ ô nhiễm thông qua hạt cỏ dại, hạt của các loại cây trồng hoặc loài khác và vật liệu trơ như đá, bụi bẩn hoặc cành cây được coi là tạp chất. Tạp chất được biểu thị bằng phần trăm khối lượng.
Kích thước hạt: Độ đầy đặn và/hoặc đầy đặn của hạt nói chung là những đặc điểm mong muốn. Những đặc tính này cho thấy hạt giống có tiềm năng tạo ra cây con khỏe mạnh trong điều kiện thuận lợi.
Hạt giống bị hư hỏng, biến dạng hoặc bị nhiễm bệnh: Hạt giống chất lượng thấp có các bệnh truyền qua hạt giống, côn trùng và các tạp chất ngoại lai khác. Hạt giống chất lượng cao không được có các loại tổn thương cơ học làm giảm khả năng nảy mầm và sức sống của cây con.
Gạo đỏ: Gạo đỏ không được chấp nhận trên thị trường gạo. Hạt không được có nhiều hơn 25% diện tích bề mặt có màu đỏ hoặc sọc đỏ.
Khả năng sống của hạt giống: Khả năng sống của hạt giống trên đồng ruộng sẽ được xác định phần lớn từ độ ẩm khi lưu trữ, khả năng nảy mầm và sức sống của cây con.
Độ ẩm: Điều này có ảnh hưởng rõ rệt đến tuổi thọ và sức sống của hạt. MC phải nhỏ hơn 14% khi bảo quản trong thời gian ngắn và tốt nhất là nhỏ hơn 12% khi bảo quản trong thời gian dài.
Tỷ lệ nảy mầm: Điều này thể hiện tỷ lệ của tổng số hạt còn sống. Nó được xác định thông qua các cuộc kiểm tra có kiểm soát và đếm số lượng hạt nảy mầm thực tế. Nhiều giống có thời gian ngủ nghỉ ngay sau khi thu hoạch. Được bảo quản trong hệ thống mở truyền thống, tỷ lệ nảy mầm của hầu hết các hạt giống lúa bắt đầu xấu đi nhanh chóng, sau 6 thang.
Sức sống của hạt giống: Đặc tính chất lượng này cung cấp ước tính rất tốt về năng suất tiềm năng trên đồng ruộng và sau đó là giá trị trồng trọt trên đồng ruộng. Mặc dù tốc độ nảy mầm thay đổi đôi chút giữa các giống, nhưng hạt phải hấp thụ (hấp thụ) độ ẩm và trong vòng 2 ngày sẽ tạo ra rễ (rễ mầm) và lá đầu tiên (lá mầm) trong vòng 4 ngày. Lúc này hạt được coi là đã nảy mầm.

Mục đích của chứng nhận hạt giống là để duy trì và cung cấp cho nông dân những hạt giống chất lượng cao và thuần chủng về mặt di truyền của các giống cây trồng ưu việt. Chỉ những giống cây trồng có kiểu gen di truyền vượt trội và được nhân giống để duy trì độ thuần chủng và bản sắc mới đủ điều kiện để được chính phủ chứng nhận. Hạt giống được chứng nhận có độ thuần khiết di truyền cao, tỷ lệ nảy mầm và sức sống cao và có chất lượng tốt (nghĩa là không bị bệnh và hạt bị hư hỏng hoặc chưa chín sinh lý).
Độ thuần của giống cây trồng là yếu tố đầu tiên được xem xét trong chứng nhận hạt giống, nhưng các yếu tố khác như không có cỏ dại và bệnh, sức sống, độ thuần cơ học và cấp độ cũng rất quan trọng. Một trong những cách hiệu quả nhất để hạn chế sự phát triển của cỏ dại sử dụng hạt giống không lẫn hạt cỏ dại. Trồng hạt giống sạch bệnh có thể giảm tổn thất theo cách tương tự. Hạt giống được làm sạch và phân loại đúng cách sẽ dễ trồng hơn và mang lại giá trị đồng đều hơn. Vì vậy, chứng nhận hạt giống đã được thiết kế không chỉ để duy trì độ thuần di truyền của các giống cây trồng ưu việt mà còn để thiết lập và duy trì các tiêu chuẩn hợp lý về tình trạng và chất lượng hạt giống.
1. Các nhóm hạt giống

2. Kiểm tra hạt giống
Mẫu hạt giống được thu thập và gửi đi phân tích trong phòng thí nghiệm sau khi sấy khô và xử lý. Các thử nghiệm được tiến hành bao gồm những thử nghiệm đánh giá:
- Độ thuần của giống
- Hạt cỏ dại và giống cây trồng khác
- Vật liệu trơ (đá, đất,…)
- Các giống khác
- Gạo đỏ,
- Tỷ lệ Nảy mầm
- Độ ẩm
Các quốc gia đặt ra tiêu chuẩn cho các yếu tố khác nhau được xem xét khi chứng nhận các loại hạt giống lúa khác nhau.


1. Độ ẩm hạt (MC)
Có hai phương pháp có thể được sử dụng để đo MC. Phương pháp chính hoặc trực tiếp, thường được gọi là phương pháp sấy khô và phương pháp thứ cấp sử dụng máy đo độ ẩm điện tử.
Sấy khô bằng lò sấy: Phương pháp sấy khô này mất nhiều thời gian hơn để thực hiện nhưng cung cấp phép đo MC đáng tin cậy nhất. Nó dựa trên việc giảm khối lượng. Mẫu được cân và sau đó đặt vào lò cho đến khi loại bỏ hết nước và cân lại. MC sau đó được tính toán dựa trên mức giảm khối lượng. Vì các phép đo khối lượng có độ chính xác cao nên đây là phương pháp chính xác nhất.

Máy đo độ ẩm điện tử: Phương pháp này sử dụng máy đo MC bằng đo điện trở hoặc điện dung của mẫu thóc
- Đọc hướng dẫn sử dụng.
- Bật máy đo độ ẩm.
- Đảm bảo máy được đặt cho thóc.
- Đổ mẫu thóc cần kiểm tra vào khay hoặc bát của máy đo độ ẩm.
- Xoay hoặc nhấn núm cho đến khi nó đóng hoàn toàn. Độ ẩm được hiển thị.
- Kiểm tra ít nhất ba mẫu và tính giá trị trung bình của ba số đo.
Máy đo độ ẩm chính xác nhất sau khi chúng được hiệu chuẩn. Để thực hiện điều này, hãy sử dụng phương pháp lò sấy để xác định độ ẩm chính xác cho mẫu thóc. Kiểm tra một mẫu từ cùng một lô bằng máy đo độ ẩm và so sánh kết quả.
2. Kiểm tra tỷ lệ mầm
Thử nghiệm nảy mầm thường là thử nghiệm duy nhất mà nông dân có thể tiến hành trên hạt giống trước khi trồng. Theo dõi thời gian nảy mầm cũng sẽ cho thấy sức sống của cây.
Lấy mẫu: Nếu hạt giống đem đi khảo nghiệm là từ một lô hạt chứa nhiều hơn một túi thì mẫu phải được lấy từ nhiều túi. Một nguyên tắc nhỏ để xác định số lượng túi/bao cần lấy mẫu là căn bậc hai của số bao của lô giống. Ví dụ, nếu lô có chín túi thì lấy mẫu ít nhất ba túi. Nếu lô có 100 túi thì lấy mẫu từ ít nhất 10 túi.
Thiết bị và vật liệu: để thực hiện thử nghiệm này bạn sẽ cần:
- Khay chống thấm nước (chai nước đáy phẳng, cắt làm đôi)
- Vật liệu hấp thụ nước (giấy ăn hoặc bông gòn là lý tưởng nhất)
- Hạt giống
- Nước
Quy trình: Thực hiện theo các bước sau.
- Đặt vật liệu hấp thụ nước vào khay chống thấm.
- Lấy mẫu ngẫu nhiên từ mỗi lô hạt giống và trộn vào thùng chứa.
- Lấy ít nhất ba mẫu hạt từ hạt đã trộn.
- Đếm 100 hạt từ mỗi mẫu và đặt lên vật liệu thấm nước bên trong khay.
- Làm ướt vật liệu thấm hút một cách cẩn thận.
- Cứ sau 10 ngày: (1) kiểm tra mỗi ngày xem chất hấp thụ còn đủ ẩm không và (2) ghi lại số lượng hạt nảy mầm.
- Tính số liệu nảy mầm trong 5 ngày và 10 ngày
Tỷ lệ nảy mầm là một chỉ số về sức sống. Hạt nảy mầm nhanh làm tăng khả năng hạt giống sẽ phát triển thành cây con trên đồng ruộng.
Tính tỷ lệ nảy mầm: Tỷ lệ nảy mầm là số hạt trung bình nảy mầm trong khoảng thời gian 5 và 10 ngày.

Ví dụ: nếu sau 10 ngày có 86 hạt nảy mầm trong khay 100 hạt thì tỉ lệ nảy mầm sau 10 ngày là = (86 / 100)x100= 86%
3. Độ tinh khiết của lô hạt giống
Các tạp chất được đo để kiểm tra độ sạch của lô hạt là:


4. Độ thuần của giống
Hình thái hạt: Kích thước và hình dạng hạt (tỷ lệ chiều dài và chiều rộng) là một đặc tính rất ổn định của giống có thể được sử dụng để đo độ thuần của mẫu giống. So sánh tỷ lệ chiều dài và chiều rộng của mẫu với tỷ lệ được công bố của giống sẽ cho thấy độ thuần giống của mẫu hạt. Nếu độ chệnh lệch đáng kể cho thấy mẫu không thuần, do đó nó là một giống khác hoặc là hỗn hợp của nhiều giống.
Qui trình:
- Lấy một mẫu ngẫu nhiên từ lô hạt giống.
- Thu thập ngẫu nhiên 20 hạt từ mẫu này.
- Sử dụng thước cặp Vernier hoặc máy phóng ảnh để đo kích thước của từng hạt trong số 20 hạt.
- Lập bảng chiều dài và chiều rộng của các hạt và tính giá trị trung bình.
Hình dạng hạt: Để thu được hình dạng hạt, tỷ lệ chiều dài và chiều rộng, sử dụng phương trình sau:

5. Lấy mẫu dựa trên khối lượng
Đặc điểm thứ hai đo lường độ thuần của giống là khối lượng 1.000 hạt. Mỗi giống có số liệu khối lượng 1.000 hạt được công bố. Nếu khối lượng 1.000 hạt được tính từ mẫu khác với số liệu đã công bố này thì đó có thể là dấu hiệu cho thấy mẫu có chứa hỗn hợp nhiều loại giống.
Quy trình:
- Chọn một mẫu ngẫu nhiên từ lô hạt giống.
- Đếm 1.000 hạt nguyên hạt từ mẫu.
- Cân 1,000 hạt.
Đây chính là khối lượng của 1,000-hạt.
6. Hạt đỏ
Một hạt được coi là có màu đỏ nếu hơn 25% diện tích bề mặt của nó có màu đỏ hoặc có sọc.

7. Ghi lại chất lượng lô hạt giống
Lấy mẫu hạt giống được cung cấp và tiến hành một loạt các cuộc kiểm tra chất lượng được mô tả ở trên. Sử dụng kết quả thử nghiệm để hoàn thành bảng dưới đây.
Bảng tổng hợp cho báo cáo chất lượng hạt giống

- Hạt giống thuần: Tính đúng giống căn cứ vào hình dạng, kích thước, màu sắc hạt; thường là đại đa số các hạt. Những hạt lúa khác có dấu hiệu khác dạng nên được đặt dưới hỗn hợp giống lúa.
- Hạt tốt nhất: Hạt giống thuần dày hoặc đầy đặn, không có hoặc ít bị biến màu (<0,5% bề mặt hạt bị biến màu). Hạt lép một nửa và lép sẽ thuộc loại được lấp đầy một phần hoặc chưa được lấp đầy.
- Bị đốm và đổi màu: Sự đổi màu của hạt gạo được chia làm 2 loại. Một là đốm do một số bệnh (đốm nâu) hoặc côn trùng (thiệt hại do bọ ăn lúa gây ra). Trường hợp còn lại là sự đổi màu trên một hoặc nhiều phần hạt do Curvularia (hạt đen) hoặc đôi khi do Alternaria padwickii (bệnh stackburn) hoặc do thối bẹ trong một số trường hợp nhất định. Các bệnh lúa khác không tạo ra sự đổi màu đồng đều. Chúng tôi coi bất kỳ hạt nào có bề mặt hạt bị biến màu hoặc có đốm trên 0,5% là bị biến màu. Sự đổi màu có thể xảy ra trên các hạt được lấp đầy hoặc một phần hoặc rỗng.
- Đầy một phần: Hạt giống không được lấp đầy hoàn toàn do chưa chín lúc thu hoạch hoặc do hạt bị nhiễm một số bệnh hoặc côn trùng phá hoại.
- Hạt biến dạng: Hạt có hình dạng bất thường do áp suất cơ học trong quá trình hình thành hạt hoặc do nhiễm trùng hạt (thối bẹ) hoặc bị nhiễm tuyến trùng đầu trắng hoặc thân.
- Hạt đã nẩy mầm: Sự nảy mầm có thể mang tính chất di truyền khi không có trạng thái ngủ (đã bị mọc mầm) hoặc khi bông tiếp xúc với nước lúa trước khi thu hoạch.
- Hạt bị dập (hạt giống bị bệnh): Những hạt này bị nhiễm bệnhthan vàng do nấm /false smut (Ustilaginoidea virens) or Bệnh nấm đen hạt ở Lúa /kernel smut (Tilletia barclayana) [bệnh ở các phần cụ thể].
- Hạt không đầy: Các hạt không có nội nhũ có thể là do một số yếu tố: một số bông con không thể thụ tinh và hình thành nội nhũ hoặc chết phôi do nhiễm trùng sớm (ví dụ: đốm nâu, thối bẹ, tuyến trùng đầu trắng, nhân đen, bakanae, v.v.).
- Giống khác: Các loại hạt khác, không là Oryza sativa.
- Giống lúa bị lẫn: Chủ yếu được phân biệt bởi tính đúng của giống bằng sự khác biệt về kích thước hạt, hình dạng, màu sắc vỏ trấu, râu hạt, Độ phủ lông vỏ trấu, và màu vỏ hạt gạo. Thường có số lượng ít.
- Giống cỏ dại: Hạt của các loài khác, có kích thước khác nhau từ lớn (Rottboella và Ischaemum spp.) đến nhỏ (Scirpus juncoides), số lượng của chúng ở lô hạt giống được ghi lại.
- Các thành phần khác của cây: Thường xuất hiện ở những lô hạt được xử lý không đúng cách, có những mảnh lá, thân hoặc cành bị gãy.
- Hạt trơ: Hạt lép do chưa chín lúc thu hoạch hoặc do hạt bị nhiễm một số bệnh hoặc côn trùng phá hoại.
- Côn trùng phá hoại: Lô hạt bị nhiễm côn trùng bảo quản có thể được ghi lại bằng cách đếm số hạt bị côn trùng phá hoại.